Chào các em học sinh, sinh viên yêu quý! Hôm nay, Thầy Dũng sẽ cùng các em tìm hiểu về một giai đoạn lịch sử đầy biến động nhưng cũng không kém phần oai hùng của dân tộc ta – Thời Bắc thuộc.
1. Thời Bắc thuộc là gì?
Nói một cách dễ hiểu, Thời Bắc thuộc là giai đoạn lịch sử mà nước ta bị các triều đại phong kiến phương Bắc đô hộ. Giai đoạn này kéo dài từ năm 179 trước Công nguyên (TCN) (thời nhà Triệu) đến năm 938 sau công nguyên(SCN) (thời nhà Ngô).
Nhiều người nhầm lẫn rằng Bắc thuộc là một triều đại. Tuy nhiên, đây là một quan niệm sai lầm. Thực chất, Bắc thuộc là cách gọi chung cho giai đoạn lịch sử mà đất nước ta chịu sự cai trị của các triều đại phương Bắc.
2. Đặc điểm của thời kỳ Bắc thuộc:
Thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm, trải qua nhiều triều đại với những chính sách cai trị khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, thời kỳ này có những đặc điểm nổi bật sau:
- Nước ta bị mất tên gọi riêng, bị chia thành các đơn vị hành chính theo mô hình của Trung Quốc. Ví dụ như Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam đô hộ phủ,…
- Nhân dân ta phải nộp nhiều loại thuế, chịu ách lao dịch nặng nề, bị cướp đoạt ruộng đất, tài sản.
- Chính quyền đô hộ thực hiện chính sách đồng hóa về văn hóa, phong tục, tập quán,…
Các giai đoạn của thời kỳ Bắc thuộc
thời kỳ Bắc thuộc ra thành 3 giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều phản ánh được diễn trình lịch sử – văn hóa của hơn mười thế kỷ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
Bắc thuộc lần thứ nhất :Vai trò chủ đạo của văn hóa Đông Sơn cổ truyền
Từ sau thất bại của An Dương Vương đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng và chính quyền Trưng Vương. Thời kỳ này nền văn minh Việt cổ vẫn thể hiện đầy đủ sức sống mãnh liệt của nó và là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cuộc đồng khởi toàn dân do Hai Bà Trưng lãnh đạo vào mùa xuân năm 40, kết thúc 2 thế kỷ đô hộ của phương Bắc, “rửa sạch nước thù”, “nối lại nghiệp xưa họ Hùng”.
Tuy nhiên, không đầy 3 năm sau, năm 43, trước sức tấn công của quân đội nhà Hán do Mã Viện chỉ huy, Hai Bà Trưng thất thủ, đất nước lại rơi vào ách cai trị của Đông Hán, mở đầu giai đọan Bắc thuộc lần thứ hai
Bắc thuộc lần thứ hai: Mô thức văn hóa Việt – Hán
Từ sau thất bại của Trưng Vương đến khởi nghĩa Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân.
Từ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhân dân Giao Châu liên tục nổi dậy, chuyển giao vai trò lãnh đạo từ quý tộc bộ lạc sang các hào trưởng. Đỉnh cao của phong trào diễn ra giữa thế kỷ VI với cuộc khởi nghĩa Lý Bí, người xuất thân từ hào trưởng, đã lãnh đạo khởi nghĩa vào mùa xuân năm 542 và thành lập Nhà nước Vạn Xuân vào năm 544. Ông tự xưng là Nam Việt Đế, xây dựng cơ cấu nhà nước tập quyền trung ương, đánh dấu bước trưởng thành trong cuộc đấu tranh chống nô dịch và đồng hóa. Ông là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhận ra vị trí trung tâm bờ cõi của vùng đất Hà Nội và chọn làm đất đóng đô.
Bắc thuộc lần thứ ba: Phục hưng văn hóa Việt
Từ sau thất bại của nhà nước Vạn Xuân đến chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền
Năm 602, nhà nước Vạn Xuân bị Lưu Phương nhà Tùy đánh bại, và từ năm 607, chính quyền đô hộ phương Bắc thiết lập thủ phủ tại Tống Bình. Nhà Đường tiếp tục củng cố thành lũy ở đây, xây dựng nhiều công trình như Tử thành và La Thành để đối phó với các cuộc nổi dậy.
Mai Thúc Loan và Phùng Hưng là hai nhân vật tiêu biểu nổi dậy chống lại chính quyền đô hộ, chiếm thành Tống Bình và tổ chức cai trị. Đầu thế kỷ X, Khúc Thừa Dụ nổi dậy lật đổ nhà Đường, lập chính quyền tự chủ tại La Thành. Sau khi Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ lần lượt qua đời, đất nước lại rơi vào ách đô hộ.
Năm 931, Dương Đình Nghệ giải phóng thành Đại La, nhưng sau đó bị giết bởi Kiều Công Tiễn. Ngô Quyền, lãnh đạo các tướng cũ của Dương Đình Nghệ, đã đánh bại quân Nam Hán tại Bạch Đằng vào cuối năm 938. Ông xưng vương năm 939, đóng đô tại Cổ Loa, mở ra thời kỳ độc lập cho Việt Nam. Chiến thắng này được coi là cột mốc chấm dứt hơn 1000 năm đô hộ phương Bắc, khẳng định sức mạnh văn hóa và tinh thần dân tộc Việt.
Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong 1000 năm Bắc thuộc
Từ cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ đầu tiên của nhân dân Âu Lạc bùng nổ năm 40 đến thế kỉ X, nhiều cuộc khởi nghĩa đã liên tiếp nổ ra ở ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
– Năm 40, khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Hát Môn.
– Trong các năm 100, 137, 144, diễn ra các cuộc khởi nghĩa của nhân dân Nhật Nam ở quận Nhật Nam.
– Năm 157, khởi nghĩa của nhân dân Cửu Chân ở quận Cửu Chân.
– Năm 178, 190, khởi nghĩa của nhân dân Giao Chỉ ở quận Cửu Chân.
– Năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu ở quận Giao Chỉ.
– Năm 542, khởi nghĩa Lý Bí.
– Năm 687, khởi nghĩa Đinh Tiến, Lý Tự Tiên.
– Từ năm 713 – 722, khởi nghĩa Mai Thúc Loan.
– Từ năm 776 – 791, khởi nghĩa Phùng Hưng.
– Từ năm 819 – 820, khởi nghĩa Dương Thanh.
– Năm 905, khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ.
– Năm 938, khởi nghĩa Ngô Quyền.
Nhiều cuộc khởi nghĩa được các tầng lớp nhân dân ba quận tham gia, hưởng ứng giành thắng lợi lập được chính quyền tự chủ trong một thời gian.
3. Ý nghĩa của việc tìm hiểu về thời kỳ Bắc thuộc:
Có thể nói, thời kỳ Bắc thuộc là một giai đoạn lịch sử đầy bi thương nhưng cũng rất đỗi hào hùng của dân tộc ta. Việc tìm hiểu về giai đoạn này giúp chúng ta:
- Hiểu rõ hơn về lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông.
- Nhận thức rõ hơn về lòng yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
- Biết ơn các thế hệ cha anh đi trước đã hi sinh xương máu để bảo vệ nền độc lập tự do cho dân tộc.
- Thêm yêu, thêm tự hào về truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
4. Kết luận:
Thầy hy vọng rằng, qua bài viết này, các em đã hiểu rõ hơn về thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam. Các em hãy tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về giai đoạn lịch sử đầy biến động này nhé!
Nếu các em có bất kỳ câu hỏi hay thắc mắc nào, hãy để lại bình luận phía dưới, Thầy Dũng sẽ giải đáp cho các em. Đừng quên chia sẻ bài viết bổ ích này đến bạn bè và người thân nhé!